Trồng trọt Chi Linh lăng

Cỏ linh lăng có thể gieo vào mùa xuân hay mùa thu, và phát triển tốt trên các loại đất được tưới tiêu nước tốt với pH khoảng 6,8-7,5. Cỏ linh lăng cần nhiều kali; các loại đất có độ dinh dưỡng thấp cần phải được bón phân bằng phân hữu cơ hay phân hóa học. Thông thường người ta gieo 13–17 kg/hecta (12-15 pao/mẫu Anh) trong các khu vực có khí hậu thích hợp và khoảng 22 kg/hecta (20 pao/mẫu Anh) trong các khu vực xa hơn về phía nam (ở Bắc bán cầu). Các loại cây che bóng thông thường được trồng, cụ thể là đối với vụ gieo hạt mùa xuân để giảm cỏ dại. Thuốc diệt cỏ đôi khi cũng được sử dụng.

Trong phần lớn các khu vực, cỏ linh lăng được thu hoạch từ 3-4 lần trong năm. Tổng năng suất khoảng 10 tấn/hecta (4 tấn/mẫu Anh) nhưng dao động theo khu vực và phụ thuộc vào thời tiết cũng như giai đoạn trưởng thành khi thu hoạch. Những lần thu hoạch sau thường có năng suất cao hơn nhưng thành phần dinh dưỡng lại hay bị giảm.

Các loại bọ chét trên lá có thể giảm sản lượng đáng kể, cụ thể là đối với lần thu hoạch thứ hai trong năm do thời tiết là ấm nhất. Sử dụng thuốc trừ sâu đôi khi được áp dụng để ngăn không cho chúng phát triển. Cỏ linh lăng cũng dễ bị tổn thương trước bệnh thối gốc Texas (do nấm Phymatotrichopsis omni gây ra). Một số ấu trùng của một số loài thuộc bộ Lepidoptera như bướm mắt cáo (Semiothisa clathrata) cũng ăn lá của cỏ linh lăng.

Việc gieo trồng cỏ linh lăng để lấy hạt đòi hỏi phải có sự thụ phấn nhân tạo, do vậy khi cỏ linh lăng ra hoa người ta phải đưa những "sinh vật thụ phấn" nhân tạo ra gần cánh đồng. Thông thường người ta dùng loài ong làm tổ dưới đất (Megachile rotundata), được nuôi trong các tổ đặc biệt gần các cánh đồng trồng cỏ lấy hạt, hay các tổ ong mật (chi Apis).